EVANGELII GAUDIUM – NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG
Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ
DÀNH CHO CÁC GIÁM MỤC
CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC THÁNH HIẾN
VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU GIÁO DÂN
VỀ VIỆC CÔNG BỐ TIN MỪNG
TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Lời người dịch – Tông Huấn này gồm có 5 chương và 288 câu. Trong Tông Huấn này, Đức Thánh Cha giải thích và khai triển rất nhiều điều cho thấy rõ chủ trương và lập trường của ngài. Ngài muốn tất cả mọi tín hữu, từ Giám Mục, Linh Mục cho đến giáo dân đọc và sử dụng những chỉ dẫn trong Tông Huấn này để chuyển hướng sống đạo và truyền giáo. Vì Tông Huấn khá dài và súc tích, xin mạn phép chia thành ba phần cho dễ đọc và nghiên cứu. – Phaolô Phạm Xuân Khôi
MỞ ĐẦU
1. Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Người cứu độ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập. Với Chúa Giêsu Kitô niềm vui được sinh ra và luôn luôn tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khuyến khích các tín hữu Kitô giáo, để mời họ vào một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui trong khi chỉ ra những con đường mới cho cuộc hành trình của Hội Thánh trong những năm tới.
I. Một niềm vui luôn đổi mới và thông truyền
2. Nguy cơ lớn nhất trong thế giới ngày nay, với những cung cấp tràn ngập và đa dạng của chủ nghĩa tiêu thụ, là một nỗi buồn cá nhân đến từ tâm hồn tự mãn và tham lam, từ cơn sốt tìm kiếm những thú vui phù phiếm, và một lương tâm bị cô lập. Khi đời sống nội tâm bị đóng kín với những tư lợi, thì không còn chỗ cho người khác nữa, những người nghèo không thể vào được nữa, người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa, không còn được hưởng niềm vui ngọt ngào của tình yêu Ngài, tim họ không còn đập những nhịp nhiệt thành để làm việc thiện nữa. Ngay cả các tín hữu cũng gặp nguy cơ này, chắc chắn và thường trực. Nhiều người không chống đỡ nổi và biến thành những người bất mãn, bất bình và không còn sức sống. Đó không phải là sự chọn lựa của một cuộc sống xứng đáng và đầy đủ, đó không phải là ước muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không phải là đời sống trong Chúa Thánh Thần, tuôn chảy từ Thánh Tâm của Đức Kitô Phục Sinh.
3. Tôi mời mọi Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay lúc này đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Chúa Giêsu Kitô, hay ít ra, quyết định để cho Người gặp gỡ mình và không ngừng tìm kiếm Người mỗi ngày. Không có một lý do nào mà một người có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, bởi vì “không ai bị chối từ niềm vui mà Chúa mang đến”. Chúa không làm cho những ai dám thực hiện cuộc mạo hiểm này phải thất vọng, và khi một người nào bước một bước nhỏ về phía Chúa Giêsu, người ấy nhận ra rằng mình được Người chờ đợi với vòng tay rộng mở. Đây là thời điểm để thưa cùng Đức Chúa Giêsu Kitô: “Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, nhưng con đang ở đây một lần nữa để lập lại giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa. Lạy Chúa, xin một lần nữa đón nhận con trong vòng tay cứu độ của Chúa”. Điều này làm cho chúng ta cảm thấy sung sướng biết bao khi được trở lại với Người mỗi khi chúng ta đi lạc đường! Tôi nhấn mạnh một lần nữa: Thiên Chúa không bao giờ biết mệt khi tha thứ, chính chúng ta là kẻ cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin lòng thương xót của Người. Người là Đấng mời chúng ta tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22) và ban cho chúng ta một mẫu gương: Người tha thứ bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác Người lại đến để vác chúng ta trên vai của Người. Không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta phẩm giá mà tình yêu vô hạn và bền vững này đã ban cho chúng ta. Người cho phép chúng ta ngẩng cao đầu và bắt đầu lại một lần nữa, với một sự dịu dàng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng nhưng luôn luôn đem lại cho chúng ta niềm vui. Chúng ta đừng chạy trốn sự Sống Lại của Chúa Giêsu, chúng ta đừng bao giờ bỏ cuộc, điều gì xảy đến sẽ đến. Không gì có thể hơn sự sống của Người là điều đẩy chúng ta về phía trước!
4. Các sách Cựu Ước đã công bố niềm vui của ơn cứu rỗi, là điều sẽ tràn đầy trong thời Thiên Sai. Ngôn sứ Isaia nói về Đấng Mêsia mà người ta mong chờ bằng cách chào Người với niềm vui: “Chúa đã làm cho dân tộc thêm đông, Chúa đã gia tăng niềm vui của nó” (9:2). Và ông khuyến khích dân chúng Sion chào đón Người giữa những bài ca “hãy reo hò mừng rỡ” (12:6). Ngôn sứ bảo những kẻ đã nhìn thấy Người ở chân trời hãy đem sứ điệp đến cho những người khác “hãy trèo lên núi cao, hỡi sứ giả của Xion; hãy cất tiếng lên cho mạnh, hỡi sứ giả của Giêrusalem” (40:9). Tất cả tạo vật chung phần vào niềm vui của ơn cứu rỗi: “Trời hãy reo mừng, đất hãy hân hoan, các núi non hãy bật tiếng reo cười, vì CHÚA đã an ủi dân Người, Người đã chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người” (49:13).
Nhìn vào ngày của Chúa, Ngôn sứ Dêcaria mời dân chúng tung hô đức vua đang đến, “khiêm tốn, ngồi trên một con lừa” : “Hãy vui mừng hoan hỉ, này thiếu nữ Xion! Hãy reo hò, hỡi thiếu nữ Giêrusalem! Nầy, đức vua của ngươi đến với ngươi: Người là Đấng công chính và chiến thắng” (Dr 9:9). Tuy nhiên, lời mời gọi lan truyền nhiều nhất có thể là của ngôn sứ Xôphônia, cho chúng ta thấy chính Thiên Chúa như trung tâm của lễ hội và niềm vui có thể thông truyền cho dân Người đang kêu cầu cứu độ. Đọc lại bàn văn này đổ đầy sự sống trên tôi: “Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị anh hùng cứu tinh! Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng, sẽ đổi mới ngươi trong tình thương của Người; Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng” (3:17).
Đây là niềm vui mà chúng ta cảm nghiệm hằng ngày giữa những điều nho nhỏ của cuộc sống, như một đáp trả đối với lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình, theo khả năng của con […] Đừng đánh mất hạnh phúc của một ngày” (Hc 14:11,14). Những lời cuối cùng này vang vọng một tình phụ tử dịu dàng biết bao!
5. Tin Mừng, tỏa sáng vinh quang của Thập Giá Đức Kitô, luôn luôn mời gọi chúng ta đến sự vui mừng. Đan cử một vài thí dụ là đủ: “Mừng vui lên” là lời chào của thiên sứ với Đức Maria (Lc 1:28). Chuyến thăm viếng bà Elizabeth của Mẹ Maria chắc chắn làm cho thánh Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (x. Lc 1:41). Trong thánh thi của mình, Mẹ Maria công bố: “Thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1:47). Khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người, thánh Gioan kêu lên: “Đây là niềm vui của tôi, và nó được nên trọn vẹn” (Ga 3:29). Chính Chúa Giêsu đã “vui mừng trong tác động của Chúa Thánh Thần” (Lc 10:21). Sứ điệp của Người là một nguồn vui: “Thầy nói với các con những điều này để niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15:11). Niềm vui Kitô của chúng ta phát ra từ nguồn mạch trái tim tràn đầy của Người. Người hứa với các môn đệ: “Các con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành niềm vui” (Ga 16:20). Và Người khẳng định: “Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và không ai sẽ lấy mất niềm vui khỏi các con được” (Ga 16:22). Sau đó, các môn đệ khi thấy Người sống lại và “đã vui mừng” (Ga 20:20). Sách Tông Đồ Công Vụ kể cho chúng ta rằng trong cộng đồng tiên khởi họ đã “ăn uống thức ăn của họ với sự vui mừng” (Cv 2:46). Những môn đệ này đi đến đâu “thì có niềm vui lớn lao ở đó” (8:8); và ngay cả giữa sự bách hại, họ được “tràn đầy niềm vui” (13:52). Một thái giám, vừa được rửa tội, đã “vui mừng lên đường” (8:39), và viên cai ngục “đã vui mừng với tất cả mọi người trong nhà vì đã tin vào Thiên Chúa” (16:34). Tại sao chúng ta cũng không nhập vào dòng sông vui mừng này?
6. Có những Kitô hữu sống như chỉ có Mùa Chay mà không có Phục Sinh. Tuy nhiên, tôi ý thức rằng người ta không sống niềm vui cùng một cách trong mọi giai đoạn và hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là trong những lúc khó khăn. Nó thích nghi và biến đổi, nhưng luôn tồn tại, ít ra như một tia sáng phát ra từ sự chắc chắn của cá nhân rằng mình được yêu thương vô cùng, vượt ra ngoài tất cả. Tôi hiểu những người buồn rầu vì những khó khăn ngặt nghèo mà họ phải chịu, tuy nhiên dần dần, chúng ta phải cho phép niềm vui của đức tin bắt đầu thức tỉnh, như một niềm tin thầm kín nhưng chắc chắn, ngay cả giữa lúc đau buồn nhất: “Hồn tôi hết được bình an thư thái, tôi đã quên mùi hạnh phúc rồi! […] Đây là điều con suy đi gẫm lại, nhờ thế mà con vững dạ cậy trông: Lượng từ bi ĐỨC CHÚA đâu đã cạn, lòng thương xót của Người mãi không vơi. Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao! […] Biết thinh lặng đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của ĐỨC CHÚA, đó là một điều hay” (Ai Ca 3:17,21-23,26).
7. Cám dỗ thường xuyên xuất hiện dưới hình thức những lời biện bạch và than trách, như cần phải có vô số điều kiện để có thể có niềm vui. Điều này xảy ra bởi vì “xã hội kỹ thuật có thể gia tăng những dịp cho lạc thú, nhưng rất khó tạo ra niềm vui”.[2] Tôi có thể nói rằng những niềm vui đẹp nhất và tự nhiên nhất mà tôi thấy trong đời tôi là những niềm vui của những người rất nghèo, những người có rất ít để bám vứu vào. Tôi cũng nhớ những niềm vui đích thực của những người khác, ngay cả giữa những nhiệm vụ cấp bách của nghề nghiệp, đã giữ một tâm hồn đầy tin tưởng, đại lượng và đơn giản. Bằng nhiều cách khác nhau, những niềm vui này rút ra từ nguồn mạch tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, được tỏ lộ nơi Đức Chúa Giêsu Kitô. Tôi không bao giờ biết mệt khi lặp đi lặp lại những lời này của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, những lời dẫn chúng ta đến trọng tâm của Tin Mừng: “Ở nguồn gốc của việc làm một Kitô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”.[3]
8. Chỉ qua cuộc gặp gỡ này – hoặc cuộc gặp gỡ đổi mới – với tình yêu của Thiên Chúa, là điều biến thành tình bằng hữu hạnh phúc, mà chúng ta được giải thoát khỏi tâm trạng cô lập và chỉ nghĩ về mình. Chúng ta trở thành con người trọn vẹn khi chúng ta trở thành nhiều hơn con người, khi chúng ta để cho Chúa dẫn mình vượt ra ngoài bản thân để đạt đến chân lý trọn vẹn nhất về con người mình. Ở đó chúng ta tìm được nguồn gốc của những hoạt động truyền giáo. Bởi vì một khi một người đã nhận được tình yêu này, là điều đem lại cho họ ý nghĩa cuộc đời, thì làm sao người ấy có thể ngồi yên được mà không truyền thông nó cho những người khác?
II. Niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng
9. Điều tốt lành luôn luôn có khuynh hướng lan truyền. Mỗi kinh nghiệm đích thực về chân lý và sự thiện mỹ là tự nó tìm cách lan rộng, và mọi người trải qua một cuộc giải phóng sâu xa trở nên nhạy cảm hơn với những nhu cầu của người khác. Khi người ta truyền thông nó, sự thiện bén rễ và phát triển. Cho nên, những ai muốn sống cách xứng đáng và trọn vẹn phải nhận ra những người khác và tìm kiếm sự tốt lành cho họ. Vì thế một số cách diễn tả của Thánh Phaolô không làm cho chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy chúng ta” (2 Cr 5: 14), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9: 16).
10. Chúng ta được khuyến khích sống ở một mức độ cao hơn, nhưng không phải với một cường độ ít hơn. “Sự sống tăng trưởng khi nó được cho đi và bị yếu đi trong cô lập và thoải mái. Thực ra, những người vui hưởng cuộc đời nhất là những người gạt sự an toàn của mình sang một bên và mải mê với sứ vụ thông truyền sự sống cho người khác”.[4] Khi Hội Thánh mời gọi các Kitô hữu lãnh nhận sứ vụ truyền giáo, Hội Thánh không làm gì khác hơn là chỉ cho họ động năng đích thực của thành công cá nhân: “Ở đây chúng ta khám phá ra một luật sâu sắc về thực tại: đó là đời sống đạt được và trưởng thành đến độ tự hiến để ban sự sống cho tha nhân. Chung cuộc truyền giáo là thế”.[5] Cho nên, một nhà truyền giáo không thể lúc nào cũng giống như một người vừa đi đưa đám về. Chúng ta hãy phục hồi và gia tăng lòng nhiệt thành, “niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, ngay cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt […] Chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, là thế giới đang tìm kiếm, có khi trong lo âu, có khi trong hy vọng, nhận được Tin Mừng không phải từ nhà truyền giáo buồn rầu và chán nản, thiếu kiên nhẫn hoặc lo âu, nhưng từ thừa tác viên của Tin Mừng mà cuộc sống của người ấy tỏa sáng lòng nhiệt thành, là người đã nhận được niềm vui của Đức Kitô trong mình trước”.[6]
Sự mới mẻ vĩnh cửu
11. Một lời rao giảng đổi mới được ban cho các tín hữu, ngay cả những người thờ ơ hoặc không hành đạo, một niềm vui mới trong đức tin và thành quả trong công việc rao giảng Tin Mừng. Thực ra, trọng tâm và bản chất của nó luôn luôn như nhau: Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải tình yêu vô biên của Ngài trong Đức Kitô đã Chịu Chết và Sống Lại. Người làm cho các tín hữu luôn luôn mới, dù họ có cũ đi nữa: “Họ được thêm sức mạnh, như thể chim bằng, họ tung cánh, họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân”. (Is 40:31). Đức Kitô là “Tin Mừng vĩnh cửu” (Kh 14: 6), và Người là một “ngày hôm qua, ngày hôm nay và mãi mãi” (Dt 13: 8), nhưng sự phong phú và vẻ đẹp của Người thì vô tận. Người vẫn trẻ mãi và là suối nguồn liên tục của sự mới lạ. Hội Thánh không ngừng ngạc nhiên trước “sự sâu thẳm của sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt Thiên Chúa!” (Rm 11:33). Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Chiều dày của sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa quá sâu và quá rộng, đến nỗi linh hồn, dù có biết về nó thế nào đi nữa, vẫn luôn có thể chìm sâu hơn nữa trong đó”.[7] Hoặc, như thánh Irênê khẳng định: “Trong việc Người đến, [Đức Kitô] đem đến với Người tất cả sự mới lạ”.[8] Với tính mới lạ này, Người luôn luôn có thể đổi mới cuộc đời chúng ta và cộng đồng chúng ta, và ngay cả khi sứ điệp Kitô dù giáo trải qua những thời đại tăm tối và những yếu đuối của Hội Thánh, nhưng vẫn không bao giờ cũ. Đức Chúa Giêsu Kitô có thể phá vỡ các mô hình nhàm chán mà chúng ta có ý giam hãm Người vào đó và Người làm chúng ta ngạc nhiên với óc sáng tạo thần linh không ngừng của Người. Mỗi khi chúng ta tìm cách trở về nguồn để lấy lại sự tươi mát ban đầu của Tin Mừng, thì những con đường mới, những phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, những dấu chỉ hùng hồn nhất, những lời nói đầy ý nghĩa mới mẻ cho thế giới ngày nay được nảy sinh. Thực ra, tất cả các hoạt động rao giảng Tin Mừng đích thực vẫn luôn luôn “mới mẻ.”
12. Mặc dù sứ vụ này đòi hỏi chúng ta phải tham gia rất rộng lượng, nhưng thật là sai lầm khi coi nó như một nhiệm vụ anh hùng cá nhân, vì công việc chủ yếu của chính Người, vượt xa những gì chúng ta có thể nhìn thấy và hiểu được. Chúa Giêsu là “Nhà rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất”.[9] Trong tất cả mọi hình thức Phúc Âm hóa, quyền tối thượng luôn luôn thuộc về Thiên Chúa, là Đấng đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài và tác động chúng ta bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần. Sự mới lạ thực sự là sự mới lạ mà chính Thiên Chúa muốn tạo ra một cách huyền nhiệm, và linh hứng, tác động, hướng dẫn và đồng hành bằng hàng ngàn cách thế. Đời sống của Hội Thánh, phải luôn luôn chứng tỏ rõ ràng rằng sáng kiến đến từ Thiên Chúa, rằng “Ngài yêu chúng ta trước” (1 Ga 4:19) và rằng chỉ một mình Ngài “ban sự phát triển” (1 Cor 3:7). Niềm xác tín này giúp chúng ta giữ được niềm vui trong một sứ vụ quá đòi hỏi, là một thách đố chiếm đoạt toàn thể cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi mọi sự nơi chúng ta, nhưng đồng thời cũng ban cho chúng ta mọi sự.
13. Chúng ta cũng không nên coi sự mới mẻ của sứ vụ này như việc nhổ tận gốc, như việc quên đi lịch sử sống động, là lịch sử đã chào đón chúng ta và đẩy chúng ta về phía trước. Ký ức là một chiều kích của đức tin mà chúng ta có thể gọi là “Đệ Nhị Luật”, tương tự như ký ức của dân Israel. Chúa Giêsu ban cho chúng ta Bí tích Thánh Thể như một sự tưởng niệm hằng ngày của Hội Thánh, đưa chúng ta sâu hơn hơn vào [mầu nhiêm] Vượt Qua của Người (x. Lc 22:19). Niềm vui của việc Rao giảng Tin Mừng luôn luôn tỏa sáng tận đáy của việc tưởng niệm tạ ơn: đó là một ân sủng mà chúng ta cần phải cầu xin. Các Tông Đồ không bao giờ quên giây phút mà Chúa Giêsu chạm vào tâm hồn các ông: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1:39). Cùng với Chúa Giêsu, việc tưởng niệm này làm hiện diện một “đám mây nhân chứng” thật sự (Dt 12:1). Trong số đó, người ta phân biệt một số vị quan trọng đặc biệt để làm cho niềm vui tín hữu của chúng ta nảy mầm: “Hãy nhớ rằng các bậc lãnh đạo của anh em, những người đã làm cho anh em nghe được lời của Thiên Chúa” (Dt 13:7). Đôi khi, những người đơn giản và những người thân cận là những người đã giới thiệu chúng ta vào đời sống đức tin: “Cha nhớ lại đức tin thành khẩn của con, đức tin đã có trước hết nơi bà ngoại con là cụ Lôis, và mẹ con là bà Êunicê” (2 Tim 1:5). Người tín hữu cơ bản là “một người nhớ”.
III. Tân Phúc Âm Hóa để truyền thụ đức tin
14. Lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng giúp chúng ta nhận ra, một cách cộng đồng, những dấu chỉ của thời đại, Đại Hội Thường Kỳ thứ XIII của Thượng Hội Đồng Giám Mục được tổ chức từ ngày mùng 7 đến ngày 28 tháng 10 năm 2012 để bàn về chủ đề: Tân Phúc Âm hóa để truyền thụ Đức Tin Kitô giáo. Thượng Hội Đồng Giám Mục tái xác nhận rằng việc tân truyền giáo mời gọi mọi người và được thực hiện trong ba lĩnh vực chính.[10] Trước hết, chúng ta nói đến lãnh vực mục vụ thông thường, “được sinh động hóa bởi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, để đốt lòng các tín hữu thường xuyên tham gia trong cộng đồng và tụ họp lại trong Ngày của Chúa để được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Bánh hằng sống”.[11] Trong lãnh vực này cũng nên bao gồm các tín hữu duy trì một đức tin Công Giáo mãnh liệt và chân thành, được diễn tả bằng những cách khác nhau, mặc dù họ không thường xuyên tham gia việc thờ phượng. Việc mục vụ này nhằm phát triển đời sống tâm linh của các tín hữu, để họ luôn luôn đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa một cách tốt hơn và bằng cả cuộc sống của họ. Ở lãnh vực thứ hai chúng ra nhắc đến “những người đã được rửa tội nhưng chưa sống các những đòi hỏi của Bí Tích Rửa Tội”, [12] là những người không có tâm hồn thuộc về Hội Thánh và không còn cảm nghiệm được niềm an ủi của đức tin. Hội Thánh, luôn luôn là người mẹ lo lắng cho con, cố gắng giúp họ cảm nghiệm một cuộc hoán cải là điều sẽ phục hồi niềm vui của đức tin cho tâm hồn họ và giúp họ hứng khởi tham gia vào Tin Mừng.
Cuối cùng, chúng ta phải lưu ý rằng việc truyền giáo liên hệ cách chủ yếu với việc loan báo Tin Mừng cho những người không biết Đức Chúa Giêsu Kitô hoặc luôn luôn từ chối Người. Nhiều người trong họ tìm kiếm Thiên Chúa một cách bí mật bị thúc đẩy bởi nhớ nhung khuôn mặt của Ngài, ngay cả ở những quốc gia theo truyền thống Kitô giáo xưa kia. Mọi người đều có quyền được nhận Tin Mừng. Các Kitô hữu có bổn phận phải công bố Tin Mừng mà không loại trừ bất cứ ai, không có vẻ như người áp đặt một nhiệm vụ mới, nhưng như một người chia sẻ một niềm vui, vạch ra một chân trời đẹp, cung cấp một bữa tiệc đáng mong muốn. Hội Thánh không phát triển bởi việc cải đạo nhưng “bởi sự hấp dẫn”.[13]
15. [Đức Chân Phước Giáo Hoàng] Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta nhận ra rằng “cần phải duy trì động năng rao giảng Tin Mừng” cho những người đang ở xa Đức Kitô, “bởi vì đây là nhiệm vụ đầu tiên của Hội Thánh”.[14] Hoạt động truyền giáo “ngày nay vẫn là thách đố lớn nhất đối với Hội Thánh”[15] và “nhiệm vụ truyền giáo vẫn phải đứng hàng đầu”.[16] Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thực sự coi những lời này là quan trọng? Chúng ta sẽ nhận ra cách đơn giản rằng hoạt động truyền giáo là mô thức cho tất cả mọi hoạt động của Hội Thánh. Theo dòng tư tưởng này, các Giám Mục châu Mỹ La Tinh nói rằng “Chúng ta không thể ngồi bình thản trong một chờ đợi thụ động nơi các nhà thờ của mình”; [17] và cần phải vượt qua “một mục vụ chỉ đơn thuần là duy trì đến một mục vụ truyền giáo thật sự.” [18] Nhiệm vụ này tiếp tục là nguồn mạch của niềm vui lớn nhất cho Hội Thánh: “Trên trời cũng sẽ vui mừng như thế vì một người tội lỗi ăn năn trở lại, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải ăn năn hối cải”(Lc 15:7).
Các đề nghị và giới hạn của Tông Huấn này
16. Tôi vui mừng chấp nhận lời mời của các nghị phụ để viết Tông Huấn này.[19] Khi làm như vậy, tôi thu thập sự phong phú của Thượng Hội Đồng. Tôi cũng tham khảo ý kiến của một số người khác nhau, và cũng có ý định bày tỏ những lo ngại riêng của tôi trong thời điểm đặc biệt này của công việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Những chủ đề liên quan đến việc rao giảng Tin Mừng trong thế giới hiện đại có thể được khai triển ở đây thì vô tận. Nhưng tôi không bàn đến một cách chi tiết những vấn đề phải được nghiên cứu và đào sâu hơn nữa. Tôi cũng không tin rằng người ta nên mong đợi từ huấn quyền Giáo Hoàng một lời dứt khoát hoặc đầy đủ về những vấn đề liên quan đến Hội Thánh và thế giới. Thật không thích hợp cho Đức Giáo Hoàng thay thế các Giám Mục địa phương trong việc phân biệt tất cả những vấn đề phát sinh trong lãnh thổ của các ngài. Theo nghĩa này, tôi cảm thấy cần phải tiến hành một “sự phân quyền” bổ ích.
17. Ở đây, tôi đã chọn để đưa ra một vài dòng tư tưởng có thể khuyến khích và hướng dẫn toàn thể Hội Thánh trong một giai đoạn mới của việc rao giảng Tin Mừng, là giai đoạn đầy nhiệt tình và năng động. Trong bối cảnh này, và theo giáo thuyết của Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, tôi đã quyết định, trong số những chủ đề khác, ngừng lại lâu ở những vấn đề dưới đây:
a) Việc cải tổ Hội Thánh trong việc “đi ra” truyền giáo.
b) Các cám dỗ của những người làm mục vụ.
c) Hội Thánh như là toàn thể Dân Chúa truyền giáo.
d) Bài giảng và việc chuẩn bị nó.
e) Việc hòa nhập vào xã hội của người nghèo.
f) Hòa bình và đối thoại trong xã hội.
g) Các động lực tinh thần cho việc truyền giáo.
18. Tôi đã nói về những chủ đề này với một khai triển có lẽ có vẻ quá mức. Nhưng tôi làm thế, không vì có ý định đưa ra một luận án, nhưng chỉ để cho thấy những tác động thực tế quan trọng của những chủ đề này trên sứ vụ thực sự của Hội Thánh. Thực ra tất cả giúp đỡ phác họa một kiểu truyền giáo đặc biệt mà tôi mời anh chị em thừa nhận trong khi thực thi mọi hoạt động. Và như vậy, theo cách này, chúng ta có thể thực hành được, trong những công việc hàng ngày của mình, lời khuyên nhủ của Lời Chúa: “Hãy luôn luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Ph 4: 4).
(Còn tiếp)
—————————————————
Notes:
[1] PAUL VI, Apostolic Exhortation Gaudete in Domino (9 May 1975), 22: AAS 67 (1975), 297.
[2] Ibid. 8: AAS 67 (1975), 292.
[3] Encyclical Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 1: AAS 98 (2006), 217.
[4] FIFTH GENERAL CONFERENCE OF THE LATIN AMERICAN AND CARIBBEAN BISHOPS, Aparecida Document, 29 June 2007, 360.
[5] Ibid.
[6] PAUL VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 80: AAS 68 (1976), 75.
[7] Spiritual Canticle, 36, 10.
[8] Adversus Haereses, IV, c. 34, n. 1: PG 7, pars prior, 1083: “Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens”.
[9] PAUL VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 7: AAS 68 (1976), 9.
[10] Cf. Propositio 7.
[11] BENEDICT XVI, Homily at Mass for the Conclusion of the Synod of Bishops (28 October 2012): AAS 104 (2102), 890.
[12] Ibid.
[13] BENEDICT XVI, Homily at Mass for the Opening of the Fifth General Conference of the Latin American and Caribbean Bishops (13 May 2007), Aparecida, Brazil: AAS 99 (2007), 437.
Nguồn: vietcatholic.org