MỪNG 140 NĂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI TRÀ KIỆU 11.9.1885 – 2025

Tôma Trương Văn Ân


1. Bối cảnh lịch sử:
Căn cứ tập tư liệu “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng Tiền Hiền sự tích Chủ Văn bảng tổng hợp Nhất Quyển” được thiết lập vào năm Khải Định nhị niên (1917), và một số tư liệu khác, thì Giáo xứ Trà Kiệu được hình thành khoảng năm 1630.(1)
Từ thời vua Lê Thần Tông (1619 – 1643) có 7 vị Tộc Tổ theo Đạo Thiên Chúa ở trên “Nội Thành Chiêm” (tức là Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay), xây dựng nhà nguyện để tiện bề giữ Đạo Chúa. Họ là những vị Tiền Hiền của Giáo xứ Trà Kiệu được vua Khải Định sắc phong công đức.(2)

Do có sự khác biệt trong quan niệm về thờ kính ông bà, tổ tiên, tại Đại Việt lúc đó độc quyền Nho giáo, cho rằng người theo Đạo mới (Đạo Thiên Chúa) không thờ cúng ông bà là tội “bất hiếu” không thể tha thứ. Họ ngộ nhận và thiếu hiểu biết, vì Đạo Thiên Chúa có cả Điều răn thứ 4 “Thảo kính cha mẹ“ khi các ngài còn sống, cũng như khi đã qua đời. Một phần do thái độ quá nhiệt tình “đi chinh phục các linh hồn” của các giáo sĩ “đầy thiện chí, quả cảm, hy sinh, bất chấp mọi ngăn trở, dám chết cho Đức Tin” đã làm cho người bản xứ cảm thấy như bị xâm lăng, bị tấn công.(3)

Chính vì những đầu óc hẹp hòi, thiếu khoan dung, kỳ thị của vua quan mà nhiều “Sắc chỉ”, “Lệnh cấm đạo, bắt những người theo đạo” kéo dài trong hơn 300 năm (bắt đầu từ 1644), với vị tử đạo – người chứng thứ nhất là An-rê Phú Yên (26/7/1644). Trong hơn 300 năm có hơn 130.000 tín hữu Công giáo đã tử đạo. Trong thời gian này có những khoảng thời gian ngắn tạm lắng, không bách hại đạo. Nhưng giai đoạn năm 1885 thời Văn Thân, sự bắt đạo, triệt phá các làng Công giáo và nhà thờ Công giáo rất khốc liệt.

Khi nghiên cứu lịch sử, liên quân Pháp, Ý và Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Việt Nam năm 1858, nhà Nguyễn dần mất chủ quyền và rơi vào ách đô hộ của Pháp sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, nhượng 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Sau đó, Hòa ước 1874 triều đình Huế phải chính thức thừa nhận quyền cai trị của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kỳ (tức miền Nam Việt Nam ngày nay).

Pháp trả lại thành Hà Nội và miền Bắc cho triều đình Huế quản lý, nhưng đặt nhiều ràng buộc về giao thương, ngoại giao, buôn bán, truyền đạo… Từ sau Hòa ước 1874, Việt Nam chính thức trở thành một nước phụ thuộc vào Pháp, mặc dù trên danh nghĩa triều đình nhà Nguyễn vẫn tồn tại.

Trong mắt Văn Thân (Văn Hào Thân Sĩ, tầng lớp nho học mang tư tưởng “Trung quân ái quốc”), người Công giáo có quan hệ gần gũi với các thừa sai gồm cả Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Pháp. Nhưng do không phân biệt được, Văn Thân cứ nghĩ tất cả là giặc Pháp. Vì vậy, người Công giáo bị coi là theo giặc!

Cao điểm là sau khi Chiếu Cần Vương do vua Hàm Nghi ban hành ngày 13/7/1885, kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp “giúp vua, cứu nước”. Nhóm Văn Thân nêu khẩu hiệu “Bình Tây, sát Tả”, họ cho Công giáo là Tả đạo. Do không bình Tây được, họ ra sức sát Tả. Vì vậy, năm 1885 nhiều vụ tàn sát đẫm máu từ Nghệ An vào tới Phú Yên, hàng chục ngàn tín hữu Công giáo tử đạo, hầu hết nhà thờ các xứ đạo và giáo điểm truyền giáo đều bị tàn phá.


2. Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Trà Kiệu:
Từ ngày 1/9 đến ngày 21/9/1885, hơn 10.000 quân Văn Thân bao vây và tấn công nhiều thế trận với Giáo xứ Trà Kiệu, có cả đại pháo thần công, voi chiến và được sự chỉ huy của những vị chuyên nghiệp, nhằm hủy diệt một xứ đạo với gần 1.500 giáo dân, kể cả người già, phụ nữ và trẻ em thiếu vũ khí tự vệ. Với sự chênh lệch về lực lượng và vũ khí, lẽ ra Trà Kiệu đã bị tàn sát bình địa. Nhưng không, Trà Kiệu vẫn đứng vững và tồn tại, là do Đức Mẹ che chở, nâng đỡ, bảo vệ đoàn con của Mẹ.

Theo tài liệu nghiên cứu của tác giả Giuse Phạm Cảnh Đáng trong tập sách “Đi Tìm Đức Mẹ Trà Kiệu”, trang 56 và 57, cho biết: ngày 10 và 11/9/1885 là những ngày đại pháo kinh hoàng từ đồi Kim Sơn cách nhà thờ khoảng 100m và đồi Non Trượt (đồi Bửu Châu ngày nay) cách nhà thờ gần 1km, nã vào nhà thờ và nhà xứ Trà Kiệu, nhưng chỉ 1 quả rơi cuối phòng áo làm hư hại nhẹ và 5 quả rơi vào khu vực nhà xứ làm bể ngọn đèn treo tường và mấy tấm phù điêu! Suốt 2 ngày này, quân Văn Thân trên đồi Kim Sơn không ngừng kêu lên: “Thật lạ lùng, có một người đàn bà luôn đứng trên nóc nhà thờ, bà rất đẹp mà ta không sao bắn trúng.”

Sau sự kiện tại Trà Kiệu, linh mục Geffroy, Hội Thừa Sai Paris, đã đến và ở lại Giáo xứ Trà Kiệu 3 tháng để điều tra nghiên cứu, trao đổi cặn kẽ với linh mục quản xứ Jean Baptiste Bruyère (Cố Nhơn) và những nhân chứng đã chiến đấu bảo vệ cộng đoàn Giáo xứ. Cha đã ghi chép cẩn thận từng chi tiết quân Văn Thân bao vây và tấn công Trà Kiệu trong 21 ngày. Sau đó cha viết bài tường trình và gửi về Hội Thừa Sai Paris, bài có tên là “Une Page de la Persécution en Cochinchine” (Một trang sử bách hại đau thương ở Nam Việt). Bài này được đăng trên tuần báo Les Missions Catholiques, xuất bản tại Lyon, Pháp, trong 4 kỳ phát hành báo, vào các ngày 03/9, 10/9, 17/9 và 24/9/1886, để kỷ niệm 1 năm sau biến cố Trà Kiệu.


3. Tam nhật tạ ơn và cầu nguyện:
Trong 3 ngày: 8/9, 9/9 và ngày 10/9/2025, cộng đoàn Giáo xứ Trà Kiệu đã làm tuần Tam nhật, để tạ ơn và cùng với Đức Mẹ cầu cho mọi người được bình an, biết giữ vững niềm tin trước những gian nan thử thách của cuộc đời. Đồng thời xin ơn, chuẩn bị tâm hồn sốt sắng để tham dự Thánh lễ mừng kỷ niệm 140 năm Đức Mẹ hiện ra cứu giúp đoàn con cái của Mẹ.


4. Thánh lễ tạ ơn và mừng 140 năm Đức Mẹ hiện ra tại Trà Kiệu (ngày 10 và 11/9/1885 – 2025):
Lúc 16 giờ, ngày 11/9/2025 Đức Tổng Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân – Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, Giám quản Tông tòa Giáo phận Đà Nẵng – đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn, mừng 140 năm Đức Mẹ hiện ra chở che, nâng đỡ, cứu giúp đoàn con cái của Mẹ. Hiện diện trong Thánh lễ có Cha Bonaventura – Đại diện Đức Giám quản, Cha Simon – Quản xứ Trà Kiệu, quý cha, quý khách hành hương, ân nhân, thân nhân của Giáo xứ Trà Kiệu và cộng đoàn dân Chúa Giáo phận Đà Nẵng.

Ngay trước Thánh lễ, cộng đoàn Trà Kiệu đã diễn lại hoạt cảnh đời sống thường nhật của người tín hữu và những bắt bớ, tấn công Giáo xứ trong giai đoạn năm 1885. Những vũ điệu tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ đã gia ơn phù trì, nâng đỡ, che chở đoàn con Trà Kiệu và sự hồi sinh phát triển đến ngày hôm nay, trở thành trung tâm hành hương của Giáo phận Đà Nẵng và của Giáo Hội Việt Nam.

Trong Thánh lễ, Đức Cha Giuse mời gọi cộng đoàn hân hoan tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ. Biến cố đi vào lịch sử, là biểu tượng của đức tin, của sự chở che và hy vọng của Giáo Hội và mỗi người. Trong cơn nguy nan, Mẹ Maria đã đỡ nâng, chở che, bảo vệ và an ủi: “Các con chớ lo, này Mẹ con đây.” Ngày nay, đời sống mỗi người cũng có những khó khăn thử thách, hãy tin tưởng phó thác, vì Đức Mẹ không bỏ rơi con cái của Mẹ bao giờ!

Tư tưởng thứ 2 Đức Cha Giuse nói đến: “Hy vọng không làm ta thất vọng.” Thánh Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Chúng ta được bình an với Chúa, chúng ta được hy vọng hưởng vinh quang với Chúa, được trở nên công chính, trở nên giao hòa với Thiên Chúa… Đức Ki-tô đã mở lối để chúng ta vào vui hưởng ân sủng của Thiên Chúa.” (Rôma 5, 1-11)

Đức Cha đã trích dẫn bài Tin Mừng thuật lại Đức Mẹ, Chúa Giê-su và các môn đệ tham dự tiệc cưới tại Cana. Đức Mẹ là người đầu tiên thấy thiếu rượu tiệc cưới, thể hiện sự quan tâm đến nhu cầu của mọi người, nhạy bén nhìn thấy những vấn đề trong đời sống, và không ngần ngại trình bày vấn đề với Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta cũng có tiệc cuộc đời, nhiều khi hết rượu tình yêu, hết niềm tin, hết sức lực, hết hy vọng… Chúng ta hãy mời Mẹ và Chúa Giê-su vào trong cuộc đời, và làm theo lời Chúa dạy, như Đức Mẹ dặn các gia nhân trong tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo.”

Cuối Thánh lễ, Cha Simon – Quản xứ Trà Kiệu – đã đại diện cộng đoàn Giáo xứ Trà Kiệu, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Tổng Giuse, quý cha, quý tu sĩ, ân nhân và tất cả cộng đoàn tham dự. Cha cũng không quên cảm ơn quý Dòng Phaolô và Mến Thánh Giá cộng đoàn tại Trà Kiệu và các ban ngành của Giáo xứ đã hy sinh góp nhiều công sức cho những ngày lễ kỷ niệm được diễn ra tốt đẹp.

Sau Thánh lễ, chương trình văn nghệ xoay quanh chủ đề tạ ơn và những chia sẻ của Đức Tổng, quý cha, quý ân nhân, thân nhân… đã, đang và sẽ giúp cho Giáo xứ Trà Kiệu xây dựng ngày càng đẹp hơn, xứng tầm là trung tâm hành hương của Giáo phận và Giáo Hội Việt Nam.


Ghi chú:

  1. Theo “Linh Địa Trà Kiệu” của 2 tác giả Giuse Phạm Cảnh Đáng và Mattheu Lưu Văn Thiên, trang 61.
  2. Trang 73.
  3. Đỗ Quang Chính, SJ. Đôi nét lịch sử Giáo hội Công Giáo, Niên Giám 2004 GHCGVN, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2004, trang 41.