Nhân kỷ niệm 200 năm Đức Giáo Hoàng Piô VII tái lập dòng Tên sau 41 năm bị giải thể, hôm Thứ Bẩy 27 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi cầu nguyện cùng với các linh mục Dòng Tên tại nhà thờ Gesù, Roma.

Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ bài chia sẻ của ngài.

Anh em và bạn bè thân yêu trong Chúa,

Nhà dòng mang tên của Chúa Giêsu đã trải qua những thời điểm bách hại khó khăn. Trong thời gian lãnh đạo của Cha Lorenzo Ricci, “kẻ thù của Giáo Hội đã thành công trong việc đạt được sự đàn áp nhà dòng” (Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi Cha Kolvenbach, ngày 31 tháng 7 năm 1990) bởi người tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Clement XIV. Hôm nay, tưởng nhớ đến sự phục hồi nhà dòng, chúng ta được mời gọi để nhắc lại trong ký ức chúng ta, nhớ đến những ơn ích đã nhận được và những ân sủng đặc biệt (x Linh Thao, 234). Hôm nay, tôi muốn làm điều đó ở đây với các bạn.

Trong thời gian thử thách và gian nan, những đám mây của nghi ngờ và đau khổ sẵn sàng ùn ùn kéo đến nên không dễ gì để tiến về phía trước, tiếp tục cuộc hành trình. Nhiều cám dỗ ập đến, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn và khủng hoảng, chẳng hạn như cám dỗ muốn dừng lại để thảo luận các ý tưởng, để mặc cho mình bị cuốn đi vào tan hoang, hay là cám dỗ muốn tập trung vào thực tại bị bức hại, và không muốn nhìn thấy điều gì khác. Đọc những thư từ của cha Ricci, có một điều đánh động trong tôi, đó là khả năng của ngài tránh được những cám dỗ và đề nghị với các tu sĩ Dòng Tên, trong một thời điểm thật khó khăn, một viễn kiến giúp họ bắt rễ sâu xa hơn nơi linh đạo của Dòng.

Cha Tổng Quyền Ricci, người đã viết thư cho các cha dòng Tên tại thời điểm đó, trong khi quan sát những đám mây càng lúc càng dày đặc ở chân trời, đã củng cố họ trong tình anh em và trong sứ mệnh của Dòng. Cụ thể là trong thời gian hoang mang và bất ổn, ngài đã không lãng phí thời gian thảo luận về các ý tưởng và phàn nàn, nhưng đã chấp nhận gánh vác ơn gọi của Dòng.

Và thái độ này đã dẫn dòng Tên cảm nghiệm được cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đối mặt với sự mất mát tất cả mọi thứ, ngay cả căn cước công khai của họ, họ không chống lại ý muốn của Thiên Chúa, họ không chống lại cuộc xung đột, để cố gắng tự cứu mình. Điều thật đẹp là nhà Dòng đã sống với cuộc xung đột cho đến cùng, không làm giảm thiểu nó. Nhà Dòng đã chấp nhận vâng lời sống trong nhục nhã cùng với Chúa Kitô bị sỉ nhục. Anh em trong Dòng đã không cứu mình khỏi cuộc xung đột bằng những mánh lới xảo quyệt và các chiến lược phản kháng. Trong sự hoang mang và nhục nhã, Dòng ưa thích được sống trong sự nhận biết thánh ý Thiên Chúa, mà không tìm kiếm một lối thoát ra khỏi cuộc xung đột một cách nhẹ nhàng.

Sự yên tĩnh bề ngoài không bao giờ thỏa mãn tâm hồn chúng ta, nhưng hòa bình thực sự mới chính là một ân sủng của Thiên Chúa. Ta chớ bao giờ tìm kiếm sự “thỏa hiệp” dễ dàng cũng chớ thực hành thứ “hòa bình chủ nghĩa” hời hợt. Chỉ có sự phân định mới cứu chúng ta khỏi sự mất gốc thực sự, khỏi sự “đàn áp” thực sự trong con tim, đó là sự ích kỷ, sự thế tục hóa, và mất đi chân trời của chúng ta. Hy vọng của chúng ta là Chúa Giêsu; và chỉ là Chúa Giêsu mà thôi. Vì vậy, cha Ricci và nhà Dòng trong suốt thời kỳ lịch sử thống trị bởi sự đàn áp chứ không chỉ là một “ít câu chuyện” bôi nhọ, đã biết rằng tình yêu sẽ có tiếng nói cuối cùng trong lịch sử; và hy vọng – ngay cả trong đêm đen – cũng sẽ lớn hơn mong đợi của chúng ta.

Sự phân định phải được thực hiện với ý ngay lành, với một con mắt đơn giản. Vì lý do này, cha Ricci, chính trong thời gian hoang mang và bối rối này, đã nói về tội lỗi của các linh mục dòng Tên. Ngài không bảo vệ mình, không có cái cảm giác của một nạn nhân giữa những gọng kềm lịch sử, nhưng ngài thừa nhận mình là một tội nhân. Nhìn vào chính mình và nhận ra chính mình như một tội nhân tránh được tình trạng đưa mình vào vị trí xem bản thân là nạn nhân trước một tên đao phủ. Nhận thức được chính mình như một tội nhân, thực sự công nhận mình như một tội nhân, có nghĩa là đặt mình trong thái độ đúng đắn để nhận được sự an ủi.

Chúng ta có thể xem xét qua quá trình phân định, và sứ vụ mà Cha Tổng Quyền đã chỉ ra cho Dòng. Năm 1759, khi các nghị định Pombal triệt hạ tỉnh Dòng Bồ Đào Nha, cha Ricci sống với cuộc xung đột, không phàn nàn và không để mình bị cuốn vào tan hoang, nhưng mời gọi cầu nguyện để có một tinh thần, một tinh thần siêu nhiên thực sự của ơn gọi, sự ngoan ngoãn hoàn hảo trước ân sủng của Thiên Chúa. Năm 1761, cơn bão tiến vào Pháp, Cha Tổng Quyền kêu gọi đặt tất cả niềm tin nơi Thiên Chúa. Ngài muốn anh em trong nhà Dòng tận dụng lợi thế của những khó khăn cho một cuộc thanh tẩy nội tâm rộng lớn hơn; những khó khăn này dẫn chúng ta đến Thiên Chúa và có thể mang lại vinh quang lớn hơn cho Ngài. Rồi, ngài đề nghị cầu nguyện, sống đời sống thánh thiện, khiêm tốn và vâng phục. Năm 1760, khi các linh mục dòng Tên người Tây Ban Nha bị trục xuất, ngài vẫn tiếp tục kêu gọi cầu nguyện. Và cuối cùng, vào ngày 21 Tháng Hai năm 1773, chỉ mấy tháng trước khi sắc lệnh Dominus ac Redemptor [sắc lệnh đình chỉ hoạt động của Dòng Tên do Đức Giáo Hoàng Clement XIV ký ngày 21/07/1773], với sự thiếu vắng hoàn toàn những giúp đỡ của con người, ngài nhìn thấy bàn tay của lòng thương xót của Thiên Chúa, mời gọi những người chịu thử thách, đừng tín thác vào ai ngoài Thiên Chúa. Niềm tin phải được phát triển ngay chính vào lúc hoàn cảnh cuộc đời ném chúng ta xuống đất. Điều quan trọng đối với cha Ricci là nhà Dòng, cho đến cuối cùng, vẫn phải giữ đúng tinh thần của ơn gọi của mình, đó là vì vinh quang rạng rỡ hơn của Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn.

Nhà Dòng, thậm chí phải đối mặt với sự sụp đổ của chính mình, vẫn giữ đúng mục đích khi được thành lập. Về điều này, cha Ricci kết thúc lời kêu gọi của mình bằng cách hô hào anh em sống tinh thần bác ái, đoàn kết, vâng lời, kiên nhẫn, sự đơn sơ Tin Mừng, tình bạn thật sự với Thiên Chúa. Mọi thứ khác đều là thế gian. Ngọn lửa của vinh quang rạng rỡ hơn của Thiên Chúa ngày nay vẫn cháy trong chúng ta, đốt cháy mọi tự mãn và bao bọc chúng ta trong một ngọn lửa, bùng cháy bên trong chúng ta, tập trung chúng ta và mở rộng chúng ta, làm cho chúng ta phát triển.

Bằng cách này, nhà Dòng đã trải qua thử thách tột cùng của sự hy sinh bất công, như trong lời cầu nguyện của Tobit, là người đang bị đè nặng tâm hồn bởi những đau buồn, thở dài, than khóc và sau đó cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, Ngài là Ðấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con. Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan và bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán” và kết thúc với lời cầu quan trọng nhất: “Không, Lạy Chúa, đừng ngoảnh mặt chẳng nhìn con”. (Tb 3,1-4.6d).

Và Chúa đã trả lời bằng cách gửi thiên thần Raphael đến loại bỏ các đốm trắng khỏi đôi mắt của Tobit, để ông lại một lần nữa có thể nhìn thấy ánh sáng của Thiên Chúa. Thiên Chúa giàu lòng xót thương, vương miện Thiên Chúa là lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta. Đôi khi con đường dẫn đến sự sống nhỏ hẹp và chật chội, nhưng nếu chúng ta sống những hoạn nạn trong ánh sáng của lòng thương xót, thì chính những hoạn nạn này thanh tẩy chúng ta như lửa, chúng mang lại cho chúng ta nhiều an ủi và đốt nóng trái tim của chúng ta, trong khi làm chúng ta yêu mến những lời cầu nguyện. Những người anh tu sĩ Dòng Tên của chúng ta khi chịu đàn áp đã nhiệt thành trong tinh thần và trong việc phục vụ Chúa, vui mừng trong hy vọng, bền đỗ trong hoạn nạn, kiên vững trong lời cầu nguyện (Rm 12:13). Và điều đó đã mang lại vinh dự cho nhà Dòng, dù chắc chắn không có những lời ca ngợi xứng đáng. Sự đời luôn luôn là thế.

Chúng ta hãy nhớ lịch sử của chúng ta: Nhà Dòng “đã được ban cho ân sủng không chỉ tin vào Chúa mà thôi nhưng còn được chịu đau khổ vì Ngài” (Phi-líp 1:29). Chúng ta phải cố nhớ điều này.

Con tàu của Dòng đã bị vây quanh bởi những con sóng và không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngay cả con thuyền của Phêrô ngày nay cũng bị dập vùi. Bóng đêm và các thế lực của bóng tối luôn luôn ở gần. Chèo chống thật mệt mỏi. Các tu sĩ Dòng Tên phải là các “tay chèo dũng cảm và thành thạo” (Piô VII, Sollecitudo omnium Ecclesiarum). Chèo mạnh lên, ngay cả trước cơn gió ngược! Chúng ta hãy chèo chống trong việc phục vụ Giáo Hội. Chúng ta hãy chèo với nhau! Nhưng trong khi chúng ta chèo chống – tất cả chúng ta hãy cùng chèo, thậm chí Giáo Hoàng cũng chèo trong con thuyền của Thánh Phêrô – chúng ta phải cầu nguyện rất nhiều, “Lạy Chúa, xin cứu chúng con! Lạy Chúa xin cứu dân Người! Lạy Chúa, ngay cả khi chúng con là những kẻ hèn tin, xin cứu chúng con. Chúng ta hãy hy vọng nơi Chúa! Chúng ta hãy luôn luôn tín thác nơi Người!”

Nhà Dòng, đã được phục hồi bởi người tiền nhiệm của tôi là Đức Piô VII, được tạo thành từ những người đàn ông dũng cảm và khiêm tốn trong việc làm chứng cho niềm hy vọng, tình yêu và sự sáng tạo tông đồ từ Chúa Thánh Thần. Đức Pius VII đã viết về mong muốn khôi phục lại Dòng để “hỗ trợ mình một cách thích đáng cho các nhu cầu tâm linh của thế giới Kitô giáo, không phân biệt dân tộc và quốc gia” (ibid). Vì thế, ngài đã cho phép các tu sĩ Dòng Tên vẫn tản mác đây đó [tại Vương Quốc Prussia và tại Nga], nhờ một vị vua Lutheran và một vị vua Chính thống “để vẫn hiệp nhất trong cùng một thân thể.” Cầu xin cho Dòng luôn hiệp nhất trong một thân thể!

Và Dòng đã ngay lập tức truyền giáo và sẵn sàng phục vụ Tòa Thánh, dấn thân quảng đại “dưới ngọn cờ của thánh giá cho Chúa và Đấng Đại Diện của Ngài trên trần gian”. Dòng tái tục hoạt động tông đồ, rao giảng và giảng dạy, thực thi các thừa tác vụ tâm linh, nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội, truyền giáo và chăm sóc cho người nghèo, người đau khổ và thiệt thòi.

Hôm nay, Dòng cũng đang đương đầu với thảm kịch của người tị nạn và người di tản với trí thông minh và sự cần cù; và Dòng cố gắng với sự sáng suốt để hội nhập công việc phục vụ của mình với đức tin và sự đề cao công lý phù hợp với Tin Mừng. Tôi xác nhận hôm nay những gì Đức Phaolô VI đã nói với chúng ta tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 32 mà chính tai tôi đã nghe, đó là “Bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, ngay cả trong những tình huống khó khăn và khắc nghiệt nhất, giữa ngã tư của các ý thức hệ, trong các chiến hào xã hội, nơi đã và đang xảy ra sự đối đầu giữa những khát vọng sâu xa nhất của con người và thông điệp lâu năm của Tin Mừng, nơi đó có những linh mục dòng Tên. “

Năm 1814, tại thời điểm phục hồi, các tu sĩ Dòng Tên đã có một đàn chiên nhỏ, một “nhà Dòng nhỏ”, nhưng sau thử thách của thánh giá đã biết làm thế nào để đầu tư vào sứ mệnh to lớn là đưa ánh sáng Tin Mừng đến tận cùng bờ cõi trái đất. Hôm nay chúng ta cũng phải cảm thấy như vậy: đi ra, và truyền giáo. Căn tính Dòng Tên là căn tính của một người đàn ông yêu mến Thiên Chúa, yêu thương và phục vụ anh em mình, thể hiện bằng gương sáng không chỉ nơi những gì người ấy tin, mà còn nơi những gì người ấy hy vọng, và nơi Đấng mà người ấy đặt trọn niềm tin của mình (x 2 Tim 1:12). Linh mục Dòng Tên muốn trở thành người bạn đồng hành với Chúa Giêsu, chia sẻ cùng những cảm xúc với Người.

Chiếu chỉ của Đức Piô VII khôi phục Dòng đã được ký kết vào ngày 7 tháng 8 năm 1814, tại Đền Thờ Đức Bà Cả, nơi cha thánh Ignatius của chúng ta cử hành Thánh Lễ đầu tiên của ngài vào đêm Giáng sinh năm 1538. Mẹ Maria, Đức Mẹ của Dòng, sẽ xúc động trước những nỗ lực phục vụ Con Mẹ của chúng ta. Xin Mẹ nhìn đến chúng ta và bảo vệ chúng ta luôn mãi.

 

Nguồn: vietcatholic.org